Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

THAM trong TÔI

THAM TRONG TÔI !
Với đồng lương 3 đồng 3 cọc của một công chức quèn để có thể nuôi sống bản thân, gia đình và con cái học hành đến nơi đến chốn, có được mái nhà chui va chui vô....nếu ngày ấy (qua rồi) tôi không THAM chắc có lẽ không thể như hôm nay !!
Ngày ấy (qua rồi) !! ngẫm lại tôi rùng mình !!?? Tôi không có dư thời gian để đọc một quyển sách trên ngăn kệ chất đầy nhiều loại. Tuyển tập CUỘC ĐỜI LÊ NIN, tuyển tập HỒ CHÍ MINH, các danh nhân, thi nhân, văn học trong và ngoài nước.... và sách về chính trị được sắp xếp ngay ngắn trân trọng trên ngăn kệ cao nhất. Lúc ấy, tôi hãnh diện với bạn bè như là để khoe khoang hơn là nghiên cứu. Những quyển sách nhàu nát trang trong lại là loại sách KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP, Kỹ thuật LÒ CẤT TINH DẦU, Kỹ thuật trồng dưa leo, trồng cà, trồng đậu.... nuôi heo, nuôi thỏ, nuôi cá....cho đến kỹ thuật điện nhà, điện công nghiệp, thợ xây dựng, thợ đóng bàn tủ ghế.
Lúc ấy, tôi rất nghèo. Nghèo kiến thức, kỹ năng để có thể sinh nhai trong điều kiện đất nước vừa thoát chiến tranh, đang chịu ảnh hưởng chiến tranh và mất ổn định ở biên giới BA TÂY (Tây Nam, Tây Bắc, Tây nguyên)...
Tôi hoàn toàn không hiểu biết gì về tôn giáo, VỀ LUẬT NHÂN QUẢ của đạo PHẬT. Tôi sống, chiến đấu và học tập theo gương BÁC HỒ vĩ đại.
Tôi quá tham lam. Cái tham của tôi là gì các bạn có biết không?
Cái tham của tôi là THAM thời gian. Tôi hay thức đến giữa đêm và chỉ chợp mắt khi không còn cưỡng lại chính mình.
Lúc đó tôi không bao giờ nghĩ rằng phải khai thác công việc công để có thêm lợi nhuận bù lỗ. Bởi vì, xung quanh mình, ai cũng khổ, nhiều người, nhiều gia đình nheo nhóc, thiếu cái ăn, cái mặc, nhà cửa xập xệ, xiêu vẹo. Trẻ nhỏ đến trường chân đất, nền phòng học cũng lởm chởm đất. Lớp đêm đèn dầu tù mù. Dân mình lúc ấy ăn bo bo cả một thời kỳ. Ngày mà ban đời sống chia cho mỗi người được nửa ký thịt lợn không dám xách tòn ten bẹo ra trước mắt mọi người.
Đùng một cái NQ 100 bung ra sản xuất. Có gạo kha khá mất tiêu bo bo hạt, có xà phòng, có đường cát mỡ gà, có vỏ xe đạp. Rồi trong ngành có cải cách, cải tiến, có tiền thưởng sáng kiến kinh nghiệm, thưởng thi đua...Song vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tối thiểu. Lúc ấy lòng THAM của tôi lại lớn hơn. Ngoài giờ nghĩa vụ, tôi phải làm thêm bất kể ngày, đêm, ngày lễ, chủ nhật....Thời gian lúc ấy rất quý vì nó mang lại cho cả nhà có mâm cơm có thịt, cá, trứng, rau...
Chính lòng THAM ấy, nó bào mòn sức vóc tôi, nhưng lại nâng cao nghị lực, kỹ năng sống và tích lũy nhiều cái gọi là phần mềm ứng xử giao tế.
Bây giờ, hiểu qua Phật pháp muốn an lạc phải triệt tiêu THAM..., phải từ bi, hỷ xả, và buông....
Hiểu qua giáo lý Thiên Chúa mở lòng bác ái, xưng tội, xin ban ơn
Hiểu qua Nho giáo của Khổng Tử là phải biết trên, biết dưới.
Hiểu qua Pháp Luân Công để tập dưỡng sinh.
Hiểu qua XHCN với những đặc trưng con người mới XHCN...
Cái lẩu thập cẩm trong tâm hồn tôi cuối cùng ngoảnh lại mới thấy cái THAM của mình không mắc tội.

THAM

THAM TRONG TÔI !
Với đồng lương 3 đồng 3 cọc của một công chức quèn để có thể nuôi sống bản thân, gia đình và con cái học hành đến nơi đến chốn, có được mái nhà chui va chui vô....nếu ngày ấy (qua rồi) tôi không THAM chắc có lẽ không thể như hôm nay !!
Ngày ấy (qua rồi) !! ngẫm lại tôi rùng mình !!?? Tôi không có dư thời gian để đọc một quyển sách trên ngăn kệ chất đầy nhiều loại. Tuyển tập CUỘC ĐỜI LÊ NIN, tuyển tập HỒ CHÍ MINH, các danh nhân, thi nhân, văn học trong và ngoài nước.... và sách về chính trị được sắp xếp ngay ngắn trân trọng trên ngăn kệ cao nhất. Lúc ấy, tôi hãnh diện với bạn bè như là để khoe khoang hơn là nghiên cứu. Những quyển sách nhàu nát trang trong lại là loại sách KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP, Kỹ thuật LÒ CẤT TINH DẦU, Kỹ thuật trồng dưa leo, trồng cà, trồng đậu.... nuôi heo, nuôi thỏ, nuôi cá....cho đến kỹ thuật điện nhà, điện công nghiệp, thợ xây dựng, thợ đóng bàn tủ ghế.
Lúc ấy, tôi rất nghèo. Nghèo kiến thức, kỹ năng để có thể sinh nhai trong điều kiện đất nước vừa thoát chiến tranh, đang chịu ảnh hưởng chiến tranh và mất ổn định ở biên giới BA TÂY (Tây Nam, Tây Bắc, Tây nguyên)...
Tôi hoàn toàn không hiểu biết gì về tôn giáo, VỀ LUẬT NHÂN QUẢ của đạo PHẬT. Tôi sống, chiến đấu và học tập theo gương BÁC HỒ vĩ đại.
Tôi quá tham lam. Cái tham của tôi là gì các bạn có biết không?
Cái tham của tôi là THAM thời gian. Tôi hay thức đến giữa đêm và chỉ chợp mắt khi không còn cưỡng lại chính mình.
Lúc đó tôi không bao giờ nghĩ rằng phải khai thác công việc công để có thêm lợi nhuận bù lỗ. Bởi vì, xung quanh mình, ai cũng khổ, nhiều người, nhiều gia đình nheo nhóc, thiếu cái ăn, cái mặc, nhà cửa xập xệ, xiêu vẹo. Trẻ nhỏ đến trường chân đất, nền phòng học cũng lởm chởm đất. Lớp đêm đèn dầu tù mù. Dân mình lúc ấy ăn bo bo cả một thời kỳ. Ngày mà ban đời sống chia cho mỗi người được nửa ký thịt lợn không dám xách tòn ten bẹo ra trước mắt mọi người.
Đùng một cái NQ 100 bung ra sản xuất. Có gạo kha khá mất tiêu bo bo hạt, có xà phòng, có đường cát mỡ gà, có vỏ xe đạp. Rồi trong ngành có cải cách, cải tiến, có tiền thưởng sáng kiến kinh nghiệm, thưởng thi đua...Song vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tối thiểu. Lúc ấy lòng THAM của tôi lại lớn hơn. Ngoài giờ nghĩa vụ, tôi phải làm thêm bất kể ngày, đêm, ngày lễ, chủ nhật....Thời gian lúc ấy rất quý vì nó mang lại cho cả nhà có mâm cơm có thịt, cá, trứng, rau...
Chính lòng THAM ấy, nó bào mòn sức vóc tôi, nhưng lại nâng cao nghị lực, kỹ năng sống và tích lũy nhiều cái gọi là phần mềm ứng xử giao tế.
Bây giờ, hiểu qua Phật pháp muốn an lạc phải triệt tiêu THAM..., phải từ bi, hỷ xả, và buông....
Hiểu qua giáo lý Thiên Chúa mở lòng bác ái, xưng tội, xin ban ơn
Hiểu qua Nho giáo của Khổng Tử là phải biết trên, biết dưới.
Hiểu qua Pháp Luân Công để tập dưỡng sinh.
Hiểu qua XHCN với những đặc trưng con người mới XHCN...
Cái lẩu thập cẩm trong tâm hồn tôi cuối cùng ngoảnh lại mới thấy cái THAM của mình không mắc tội.

Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

Chùa Bà Pênh - Kampuchea

CHÙA BÀ PÊNH
Wat Phnom

Chuyến du lịch Kampuchea 4 ngày 3 đếm từ 1-5-2014. Hai ngày đầu chúng tôi lên Siêm Riệp chiêm ngưỡng Angkor và trãi nghiệm phố đêm ở thành phố cổ kính đền chùa nơi này. Nếu tại 2 khu Angkor Thom và Angkor Wat người xưa Khmer tôn thờ vua như thần linh, như đức Phật thì ở Phnom Bakheng người ta thờ tượng con bò nằm trên chân đỉnh tháp chùa Bakheng. Như vậy, ở Bakheng có dáng vấp đạo Hindu Ấn Độ.

Rời thành phố đền cổ Siêm Riệp, chúng tôi trở về thủ đô Pnom Penh vương quốc Campuchea. Buổi sáng đẹp trời. Thành phố nơi đây xinh đẹp cổ kính như hình tượng nàng ca kỷ trong cung vua. Nhờ người Pháp khi đến đô hộ đã để lại nơi này nhiều công trình kiến trúc kiên cố độc đáo. Thành phố được quy hoạch dạng thủ phủ bên bờ một ngã ba sông Tông Lê Sáp và dòng Mê Kong khiến cho nó xứng danh là hòn ngọc viễn Đông một thời. Điểm tham quan cũng là chiêm ngưỡng đầu tiên ở thủ đô Nam Vang là ngôi chùa với cái tên Wat Phnom gắn liền với tục gọi là chùa Bà Pênh và cũng là tên thủ đô Phnom Penh (đồi bà Penh). Đây là ngôi chùa cổ kính được xây dựng từ thế kỷ thứ XIV (1373) cao 27 m tạo điểm nhấn thơ mộng giữa thủ đô Pnom Penh. Một người Pháp đã tặng chùa chiếc đồng hồ khổng lồ đặt dưới chân đồi đến nay vẫn còn hoạt động tốt. Nó là dấu ấn chùa Bà Bênh –Kampuchea. Đánh dấu một thời có mặt người Pháp ở đây.


Wat Phnom là một ngôi chùa lịch sử và là một trong những chùa quan trọng nhất ởPhnôm Pênh. Đây là ngôi chùa linh thiêng thu hút khách hành hương từ mọi miền đất nước và là điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách khi du lịch đến đất nước này.
Chùa được xây năm 1373. Nằm ở độ cao 27 m so với xung quanh, nó là điểm cao nhất trong thành phố này và cũng là công trình tôn giáo cao nhất. Chùa được một quả phụ giàu có là Daun Penh xây trên một ngọn đồi nhân tạo, sau khi một trận lụt lớn đã cuốn trôi các bức tượng Phật tới đây. Truyền thuyết kể lại rằng sự ra đời của Wat Phnom gắn chặt với sự khởi đầu của Phnôm Pênh. Người ta kể rằng năm 1372 bà Penh (Yea Penh) vớt được một cây gỗ trôi dạt trên sông. Bên trong cây gỗ là 4 bức tượng Phật. Bà đã cho đắp một ngọn đồi (phnom có nghĩa là đồi) và một ngôi chùa nhỏ (wat) ở khu vực mà ngày nay gọi là Wat Phnom. Sau này, khu vực xung quanh được gọi theo ngọn đồi (Phnom) và người tạo ra nó (Penh), vì thế mà có Phnom Penh. Ngôi chùa hiện đang tồn tại được xây dựng lại lần cuối vào năm 1926. Đã có nhiều hạng mục thêm vào trong các thế kỷ qua. Tháp chứa hài cốt lớn nhất chứa tro của vua Ponhea Yat (1421?-1462), người đã di chuyển kinh đô của đế chế Khmer từ Angkor về Phom Penh. Khu vực chùa này là trung tâm lễ hội của thành phố trong Năm mới Campuchia và Pchum Benh.

Chùa có tất cả hai hướng để tham quan, du khách tham quan ngôi chùa sẽ đi một đường và xuống một đường. Đường lên chùa không cao, phía con đường đi có bức tượng của rắn thần Naga và 2 con linh sư - những con vật quen thuộc trong tín ngưỡng của người Campuchia và là những linh vật được thấy hầu hết trong đền quần thể đền Angkor. Phần ngôi chùa phía trên đồi tôn thờ giống như hầu hết các ngôi chùa ở Campuchia, phía sau, Bà Pênh được thờ phía sau chùa rất linh thiêng mà du khách thường đến cúng bái, phía cạnh tượng bà Pênh là tượng ông thần tài- một vị thần theo tín ngưỡng của người Hoa được phối thờ. Phần tháp màu trắng được xây dựng lại phía sau tượng bà Pênh được sơn màu trắng dùng để chứa hài cốt của vua Ponhea Yat- hình ảnh đặc biệt mà từ xa có thể thấy ngôi tháp.

Phần đi xuống con đường là quảng trường nhỏ có bức tượng của vuaPonhea Yat. Phía dưới là một đồng hồ cỏ mà người Hoa đã dành tặng cho chùa. Hiện nay đồng hồ cỏ này vẫn hoạt động tốt.
Điều quy định khi tham quan chùa là không mặc quần áo ngắn tay, khi cúng bái bà Pênh tuyệt đối không cầu tình duyên. Xung quanh chùa có rất nhiều khỉ, chúng được nuôi thả tự do và tuyệt đối khi gặp chúng không được chọc phá.

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

Trời không dung, đất không tha

Xe tải né trạm cân làm sập cầu ở Yên Bái

Nguoiduatin.vn - 1 giờ trước 1170

Vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra sáng 24/5, do ôtô tải trọng lớn chạy qua làm sập một cây cầu trên tuyến đường Lương Văn Can, tổ 16B, phường Yên Thịnh, TP. Yên Bái, tỉnh Yên Bái.


Tại hiện trường, một phần cây cầu cùng chiếc xe tải đã bị sập xuống lòng suối, đầu xe tải vừa ra khỏi mặt cầu, thùng xe đang được chở đầy hàng và che bạt kín. 

Xe tải né trạm cân làm sập cầu ở Yên Bái - Ảnh 1

Hiện trường vụ tai nạn. 

Theo tin tức, xe ôtô tải mang biển kiểm soát 19C-038.20 di chuyển theo hướng từ Km7 thuộc phường Yên Thịnh đi theo hướng vào đường Trần Phú nơi gần trường Trung cấp Kinh tế và Trường chính trị tỉnh Yên Bái. 

Khi đi qua cầu Lương Văn Can do tải trọng lớn (khoảng 30 tấn) đã làm gẫy, sập toàn bộ cây cầu này. 

Được biết, theo thiết kế, cây cầu này chỉ có tải trọng 13 tấn, được xây dựng từ lâu nên đã xuống cấp nghiêm trọng. Các đơn vị chức năng cũng đã có biển cấm các loại xe tải lưu thông qua đây. Tuy nhiên lái xe vẫn cố tình điều khiển xe tải đi qua khiến cây cầu bị đổ sập. 

Theo người dân địa phương, chiếc xe tải trên đi qua tuyến đường này để tránh trạm cân do cơ quanchức năng tỉnh Yên Bái lập tại km 33+100 trên quốc lộ 70 thuộc km10 thị trấn Yên Bình, huyện Yên Bình. 

Từ khi cơ quan chức năng tỉnh Yên Bái đặt trạm cân tại đây, đã xảy ra tình trạng có nhiều xe quá tải đi theo các tuyến đường vòng để lách trạm cân. 

Xe tải né trạm cân làm sập cầu ở Yên Bái - Ảnh 2

Cầu tạm bị sập khiến nhiều phương tiện bị ách tắc.

Ông Hoàng Trọng Phán, Trưởng phòng CSGT đường bộ, đường sắt, Công an tỉnh Yên Bá, cho biết: "Ngay sau khi nhận được thông tin từ quần chúng nhân dân, Công an tỉnh đã triển khai công tác cứu hộ chiếc xe bị nạn, đồng thời điều tra làm rõ nguyên nhân tai nạn". 

Trang Phương(Tổng hợp)
Tham thì thâm

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

Tháng Tư - Mùa Phật Đản

CÂY SA LA

Trong kinh Phật, có hai loại cây được xem là linh thiêng và thường được nhắc đến nhiều là cây Bồ đề và cây Sa la. Dưới gốc cây Bồ đề,thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Dưới cây Sa la ở vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), Đức Phật đản sinh và Ngài cũng nhập diệt dưới cây Sa la tại Câu Thi La (Kusinara).

I. Giới thiệu 

Sa la tên khoa học là Couroupita guianensis Mart. ex Berg, họ Lộc vừng Lecythidaceae, bộ Sim Myrtales; trong tiếng Anh thường gọi là Cannonball Tree. Ở Việt Nam, cây Sa la còn gọi là cây Đầu lân, Hàm rồng. Giới chơi cây cảnh gọi là Ngọc kỳ lân. Cây phổ biến trong khu rừng tân nhiệt đới, đặc biệt là ở lưu vực sông Amazon. Nó có nguồn gốc ở Guyana (Nam Mỹ). Ngày nay cây này có thể tìm thấy ở Ấn Độ, miền Nam dãy núi Hy Mã Lạp, và về sau được trồng nhiều nơi ở Nam Á và Đông Nam Á. 

Ở miền Nam Việt nam, cây được trồng ở các chùa như Xá lợi, Vĩnh Nghiêm; ở Vương quốc Cambodia, cây được trồng trong hoàng cung... Có một cây Sa la to ở khu du lịch Bình Qưới, Thanh Đa; gốc to tới mấy người ôm. Hoa Sa la thường được nhắc tới trong kinh Phật. Có tác giả nghiên cứu Phật giáo còn gọi Sa la là hoa Vô Ưu. Tán cây Sa la rậm rạp, hoa Sa la rất đẹp; những cánh hoa rất dầy, hoa nhìn cứ là lạ như là hoa của loài cây thời khủng long còn xót lại. Khi kết trái, trái Sa la chín rất hôi, và khi nó chín nẫu và nồng nặc thì lúc ấy hạt mới đủ già để mọc thành mầm cây mới. Đó cũng là qui luật sinh diệt mà nhà Phật dùng cây Sa la để tượng trưng.

Sa la là một loại cây thân gỗ, cây có thể cao tới 30-35m. Hoa Sa la ra từ thân cây, suốt từ gốc lên, chùm hoa dài ra liên tục có thể tới 2-3m, quả lớn tròn to đường kính quả 15-24cm, có 200-300 hạt trong một quả. Quả cây Sa la có tính kháng sinh, kháng nấm, sát khuẩn và có tác dụng giảm đau. Cây được sử dụng để chữa bệnh cảm lạnh và đau dạ dày. Nước uống làm từ các lá được sử dụng để chữa bệnh da. Bên trong quả có thể khử trùng vết thương và lá non chữa đau răng...


II. Ý nghĩa

Cây Sa la là nơi Đức Phật sinh ra. Theo tục lệ, khi chuẩn bị đến kỳ mãn nguyệt khai hoa Hoàng Hậu Maya cùng với đoàn tùy tùng về nhà cha mẹ để sinh. Dọc đường, bà dừng chân nghỉ dưới gốc một cây Sa la ở khu rừng Lumbini, ngoại thành Kapilavatthu, thuộc nước Nepal ngày nay. Cơn đau sinh ập đến, bà tìm nơi bấu víu và cây liền nghiêng nhánh xuống cho bà vịn. Hoàng Hậu vừa vin cây thì cậu bé Siddharta ra đời và sau này tu luyện trở thành Đức Phật. Hình ảnh cây Sa la vươn nhánh xuống cho hoàng hậu vịn trong lúc sinh hạ mang rất nhiều ý nghĩa. 

Khi biết mình sắp viên tịch, Phật hành trình đến đền Càpàla, xứ Vesàli làm lễ, rồi di chuyển thêm một lộ trình khá dài đến tiếp Kusinàra. Mặc dù bị bệnh khá nặng nhưng Phật vẫn kiên quyết đi bộ, vượt sông đến rừng Sa la, xứ Kusinàra. Đoạn đường này dù chỉ có chừng 9km nhưng Phật phải đi mất khoảng 3 tuần, dừng nghỉ đến 25 lần vì bệnh và mệt.


Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ I), Phật dạy: “Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn, này Ananda, đó là Thánh tích, người thiện tín cần chiêm ngưỡng và tôn kính”. Như vậy, đến Kusinàra để nhập diệt là mục đích của Phật. Ngay cả Tôn giả Ananda cũng ngạc nhiên, thắc mắc về việc này: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé, hoang vu và phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm Bà), Ràjagaha (Vương Xá), Sàvatthi (Xá Vệ)…, Thế Tôn hãy diệt độ tại những chỗ ấy”. Cũng nhờ sự thắc mắc này, Thế Tôn giải thích rằng, sở dĩ chọn Kusinàra để diệt độ vì đây là nơi Ngài đã xả bỏ thân mạng trong quá khứ. “Ta đã từng sáu lần làm Chuyển luân Thánh vương và bỏ xác tại đây, nay Ta thành Vô thượng Chánh giác lại cũng muốn bỏ xác tại đây” (Kinh Du Hành, Trường A Hàm I; Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trung A Hàm II). Theo ngài Narada, “Đức Phật chọn Kusinàra để nhập diệt vì ba lý do. Lý do đầu tiên là để thuyết bài pháp Mahàsudasana Sutta nhằm khuyến khích đời sống đạo hạnh. Thứ nhì là để dẫn dắt Subhadda, người đệ tử cuối cùng của Ngài, vì ngoài Đức Phật ra không ai có thể cảm hóa vị này được. Thứ ba là để cho vị Bà la môn Dona có thể phân chia Xá lợi của Ngài một cách êm thắm giữa những người sùng mộ Ngài” (Đức Phật và Phật pháp, tr.225).

Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi, khi đến Kusinàra, vào trong rừng sa la, Ngài nằm đầu hướng về phương Bắc, giữa hai cây Sa la song thọ. Lúc bấy giờ, Sa la song thọ nở hoa trái mùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi xuống, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài.


Theo kinh Đại Bổn Duyên, Trường A Hàm I, cội sa la là Đạo tràng chứng đắc Vô thượng giác của Đức Phật Tỳ Xá Bà. Kinh điển cũng ghi rằng, khu rừng sa la nơi Thế Tôn nhập diệt vì đau thương sầu thảm, khô héo và mang màu trắng như chim hạc, nên còn gọi là Hạc lâm. Đặc biệt là bốn cây Sa la song thọ gần nơi sàng tọa của Phật nằm lúc nhập diệt, mỗi cây chỉ có một nhánh khô héo, chuyển sang màu trắng, cành lá hoa quả đều rơi rụng nhưng nhánh kia vẫn xanh tốt. Bốn cây này được gọi là tứ khô tứ vinh thọ (bốn cây, mỗi cây có một nhánh sống và một nhánh chết). Song thọ ở phương Đông tượng trưng cho Thường và Vô thường; song thọ ở phương Tây tượng trưng cho Ngã và Vô ngã; song thọ ở phương Nam tượng trưng cho Lạc và Bất lạc; song thọ ở phương Bắc tượng trưng cho Tịnh và Bất tịnh (Đại Niết Bàn kinh sớ, quyển 1). Chính hình ảnh của bốn cây Sa la “không phải sống mà cũng không phải chết” này đã nói lên sự thị hiện Niết bàn “sanh nhi bất sanh, diệt nhi bất diệt” của Thế Tôn. Niết bàn là vô sanh, bất diệt giữa muôn trùng sanh diệt. Bốn nhánh Sa la còn xanh tốt trong màu trắng tang thương của Hạc lâm biểu trưng cho bốn đức Niết bàn. Chính giữa vô thường biến chuyển mới làm sáng tỏ cái chân thường, vạn pháp không đối lập mà dung nhiếp; tuy hai mà một, tuy một mà hai. Vì vậy mà Thế Tôn đã chọn rừng Sa la làm nơi nhập diệt.


Như vậy, Sa la là cây thiêng (linh thọ) trong Phật giáo, giống như cây Bồ đề. Lúc ngài Huyền Trang đến Kusinàra chiêm bái, rừng Sa la chỉ còn bốn cây, hiện nay còn hai cây là những chứng tích thiêng liêng. Do đó, trồng cây Sa la để ngưỡng vọng Thế Tôn, hướng về Thánh tích, thú hướng Niết bàn là chuyện nên làm. Quan niệm Sa la là cây “diệt pháp” và không nên trồng là hoàn toàn thiển cận và sai lạc.


III. Bài học 

Một ngày nào đó, bạn bớt chút thời gian thử tìm ngắm cây và hoa Sa la. Nó đẹp lắm và người ta có thể suy ngẫm nhiều điều. Ở Việt Nam, đạo Phật đã thấm sâu vào cuộc sống. Dù nhiều người khai trong lý lịch là không tôn giáo nhưng vẫn tin và làm theo những triết lý và quy tắc Phật giáo. Ngày nay trong thế giới phẳng của toàn cầu hóa với những bầy thú điện tử, con người ta quay cuồng vì tiền bạc và địa vị. Nhưng người ta vẫn cần dành chút thời gian để quay về với cuộc sống hàng ngày; vẫn cần quan tâm đến những điều tưởng như nhỏ nhoi; vẫn cần lắm những đức tin về cuộc sống, cần phải đối xử công bằng với cỏ cây muông thú.


Nhớ tới cây Sa la nơi Phật sinh ra, cũng như là nhớ tới mảnh đất chôn rau cắt rốn. Nhớ để bảo vệ gìn giữ từng tấc đất của Tổ quốc mình. Nhớ tới cây Sa la - nơi Phật mất đi, cũng là nhớ tới quy luật sinh tồn tái tạo. Nhớ để duy trì bản sắc dân tộc, tạo sự trường tồn của nền văn hóa Việt.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

Chùa Bà Bênh

Wat Phnom

Chuyến du lịch Kampuchea 4 ngày 3 đếm từ 1-5-2014. Hai ngày đầu chúng tôi lên Siêm Riệp chiêm ngưỡng Angkor và trãi nghiệm phố đêm ở thành phố cổ kính đền chùa nơi này. Nếu tại 2 khu Angkor Thom và Angkor Wat người xưa Khmer tôn thờ vua như thần linh, như đức Phật thì ở Phnom Bakheng người ta thờ tượng con bò nằm trên chân đỉnh tháp chùa Bakheng. Như vậy, ở Bakheng có dáng vấp đạo Hindu Ấn Độ.

Rời thành phố đền cổ Siêm Riệp, chúng  tôi trở về thủ đô Pnom Penh vương quốc Campuchea. Buổi sáng đẹp trời. Thành phố nơi đây xinh đẹp cổ kính như hình tượng nàng ca kỷ trong cung vua. Nhờ người Pháp khi đến đô hộ đã để lại nơi này nhiều công trình kiến trúc kiên cố độc đáo. Thành phố được quy hoạch dạng thủ phủ bên bờ một ngã ba sông Tông Lê Sáp và dòng Mê Kong khiến cho nó xứng danh là hòn ngọc viễn Đông một thời. Điểm tham quan cũng là chiêm ngưỡng đầu tiên ở thủ đô Nam Vang là ngôi chùa với cái tên Wat Phnom gắn liền với tục gọi là chùa Bà Pênh và cũng là tên thủ đô Phnom Penh (đồi bà Penh). Đây là ngôi  chùa cổ kính được xây dựng từ thế kỷ thứ XIV (1373) cao 27 m tạo điểm nhấn thơ mộng giữa thủ đô Pnom Penh. Một người Pháp đã tặng chùa chiếc đồng hồ khổng lồ đặt dưới chân đồi đến nay vẫn còn hoạt động tốt. Nó là dấu ấn chùa Bà Bênh –Kampuchea. Đánh dấu một thời có mặt người Pháp ở đây.

Wat Phnom là một ngôi chùa lịch sử và là một trong những chùa quan trọng nhất ởPhnôm Pênh. Đây là ngôi chùa linh thiêng thu hút khách hành hương từ mọi miền đất nước và là điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách khi du lịch đến đất nước này.
Chùa được xây năm 1373. Nằm ở độ cao 27 m so với xung quanh, nó là điểm cao nhất trong thành phố này và cũng là công trình tôn giáo cao nhất. Chùa được một quả phụ giàu có là Daun Penh xây trên một ngọn đồi nhân tạo, sau khi một trận lụt lớn đã cuốn trôi các bức tượng Phật tới đây. Truyền thuyết kể lại rằng sự ra đời của Wat Phnom gắn chặt với sự khởi đầu của Phnôm Pênh. Người ta kể rằng năm 1372 bà Penh (Yea Penh) vớt được một cây gỗ trôi dạt trên sông. Bên trong cây gỗ là 4 bức tượng Phật. Bà đã cho đắp một ngọn đồi (phnom có nghĩa là đồi) và một ngôi chùa nhỏ (wat) ở khu vực mà ngày nay gọi là Wat Phnom. Sau này, khu vực xung quanh được gọi theo ngọn đồi (Phnom) và người tạo ra nó (Penh), vì thế mà có Phnom Penh. Ngôi chùa hiện đang tồn tại được xây dựng lại lần cuối vào năm 1926. Đã có nhiều hạng mục thêm vào trong các thế kỷ qua. Tháp chứa hài cốt lớn nhất chứa tro của vua Ponhea Yat (1421?-1462), người đã di chuyển kinh đô của đế chế Khmer từ Angkor về Phom Penh. Khu vực chùa này là trung tâm lễ hội của thành phố trong Năm mới Campuchia  Pchum Benh.

Chùa có tất cả hai hướng để tham quan, du khách tham quan ngôi chùa sẽ đi một đường và xuống một đường. Đường lên chùa không cao, phía con đường đi có bức tượng của rắn thần Naga và 2 con linh sư - những con vật quen thuộc trong tín ngưỡng của người Campuchia và là những linh vật được thấy hầu hết trong đền quần thể đền Angkor. Phần ngôi chùa phía trên đồi tôn thờ giống như hầu hết các ngôi chùa ở Campuchia, phía sau, Bà Pênh được thờ phía sau chùa rất linh thiêng mà du khách thường đến cúng bái, phía cạnh tượng bà Pênh là tượng ông thần tài- một vị thần theo tín ngưỡng của người Hoa được phối thờ. Phần tháp màu trắng được xây dựng lại phía sau tượng bà Pênh được sơn màu trắng dùng để chứa hài cốt của vua Ponhea Yat- hình ảnh đặc biệt mà từ xa có thể thấy ngôi tháp.
Phần đi xuống con đường là quảng trường nhỏ có bức tượng của vuaPonhea Yat. Phía dưới là một đồng hồ cỏ mà người Hoa đã dành tặng cho chùa. Hiện nay đồng hồ cỏ này vẫn hoạt động tốt.
Điều quy định khi tham quan chùa là không mặc quần áo ngắn tay, khi cúng bái bà Pênh tuyệt đối không cầu tình duyên. Xung quanh chùa có rất nhiều khỉ, chúng được nuôi thả tự do và tuyệt đối khi gặp chúng không được chọc phá.