Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

Trời không dung, đất không tha

Xe tải né trạm cân làm sập cầu ở Yên Bái

Nguoiduatin.vn - 1 giờ trước 1170

Vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra sáng 24/5, do ôtô tải trọng lớn chạy qua làm sập một cây cầu trên tuyến đường Lương Văn Can, tổ 16B, phường Yên Thịnh, TP. Yên Bái, tỉnh Yên Bái.


Tại hiện trường, một phần cây cầu cùng chiếc xe tải đã bị sập xuống lòng suối, đầu xe tải vừa ra khỏi mặt cầu, thùng xe đang được chở đầy hàng và che bạt kín. 

Xe tải né trạm cân làm sập cầu ở Yên Bái - Ảnh 1

Hiện trường vụ tai nạn. 

Theo tin tức, xe ôtô tải mang biển kiểm soát 19C-038.20 di chuyển theo hướng từ Km7 thuộc phường Yên Thịnh đi theo hướng vào đường Trần Phú nơi gần trường Trung cấp Kinh tế và Trường chính trị tỉnh Yên Bái. 

Khi đi qua cầu Lương Văn Can do tải trọng lớn (khoảng 30 tấn) đã làm gẫy, sập toàn bộ cây cầu này. 

Được biết, theo thiết kế, cây cầu này chỉ có tải trọng 13 tấn, được xây dựng từ lâu nên đã xuống cấp nghiêm trọng. Các đơn vị chức năng cũng đã có biển cấm các loại xe tải lưu thông qua đây. Tuy nhiên lái xe vẫn cố tình điều khiển xe tải đi qua khiến cây cầu bị đổ sập. 

Theo người dân địa phương, chiếc xe tải trên đi qua tuyến đường này để tránh trạm cân do cơ quanchức năng tỉnh Yên Bái lập tại km 33+100 trên quốc lộ 70 thuộc km10 thị trấn Yên Bình, huyện Yên Bình. 

Từ khi cơ quan chức năng tỉnh Yên Bái đặt trạm cân tại đây, đã xảy ra tình trạng có nhiều xe quá tải đi theo các tuyến đường vòng để lách trạm cân. 

Xe tải né trạm cân làm sập cầu ở Yên Bái - Ảnh 2

Cầu tạm bị sập khiến nhiều phương tiện bị ách tắc.

Ông Hoàng Trọng Phán, Trưởng phòng CSGT đường bộ, đường sắt, Công an tỉnh Yên Bá, cho biết: "Ngay sau khi nhận được thông tin từ quần chúng nhân dân, Công an tỉnh đã triển khai công tác cứu hộ chiếc xe bị nạn, đồng thời điều tra làm rõ nguyên nhân tai nạn". 

Trang Phương(Tổng hợp)
Tham thì thâm

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

Tháng Tư - Mùa Phật Đản

CÂY SA LA

Trong kinh Phật, có hai loại cây được xem là linh thiêng và thường được nhắc đến nhiều là cây Bồ đề và cây Sa la. Dưới gốc cây Bồ đề,thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Dưới cây Sa la ở vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), Đức Phật đản sinh và Ngài cũng nhập diệt dưới cây Sa la tại Câu Thi La (Kusinara).

I. Giới thiệu 

Sa la tên khoa học là Couroupita guianensis Mart. ex Berg, họ Lộc vừng Lecythidaceae, bộ Sim Myrtales; trong tiếng Anh thường gọi là Cannonball Tree. Ở Việt Nam, cây Sa la còn gọi là cây Đầu lân, Hàm rồng. Giới chơi cây cảnh gọi là Ngọc kỳ lân. Cây phổ biến trong khu rừng tân nhiệt đới, đặc biệt là ở lưu vực sông Amazon. Nó có nguồn gốc ở Guyana (Nam Mỹ). Ngày nay cây này có thể tìm thấy ở Ấn Độ, miền Nam dãy núi Hy Mã Lạp, và về sau được trồng nhiều nơi ở Nam Á và Đông Nam Á. 

Ở miền Nam Việt nam, cây được trồng ở các chùa như Xá lợi, Vĩnh Nghiêm; ở Vương quốc Cambodia, cây được trồng trong hoàng cung... Có một cây Sa la to ở khu du lịch Bình Qưới, Thanh Đa; gốc to tới mấy người ôm. Hoa Sa la thường được nhắc tới trong kinh Phật. Có tác giả nghiên cứu Phật giáo còn gọi Sa la là hoa Vô Ưu. Tán cây Sa la rậm rạp, hoa Sa la rất đẹp; những cánh hoa rất dầy, hoa nhìn cứ là lạ như là hoa của loài cây thời khủng long còn xót lại. Khi kết trái, trái Sa la chín rất hôi, và khi nó chín nẫu và nồng nặc thì lúc ấy hạt mới đủ già để mọc thành mầm cây mới. Đó cũng là qui luật sinh diệt mà nhà Phật dùng cây Sa la để tượng trưng.

Sa la là một loại cây thân gỗ, cây có thể cao tới 30-35m. Hoa Sa la ra từ thân cây, suốt từ gốc lên, chùm hoa dài ra liên tục có thể tới 2-3m, quả lớn tròn to đường kính quả 15-24cm, có 200-300 hạt trong một quả. Quả cây Sa la có tính kháng sinh, kháng nấm, sát khuẩn và có tác dụng giảm đau. Cây được sử dụng để chữa bệnh cảm lạnh và đau dạ dày. Nước uống làm từ các lá được sử dụng để chữa bệnh da. Bên trong quả có thể khử trùng vết thương và lá non chữa đau răng...


II. Ý nghĩa

Cây Sa la là nơi Đức Phật sinh ra. Theo tục lệ, khi chuẩn bị đến kỳ mãn nguyệt khai hoa Hoàng Hậu Maya cùng với đoàn tùy tùng về nhà cha mẹ để sinh. Dọc đường, bà dừng chân nghỉ dưới gốc một cây Sa la ở khu rừng Lumbini, ngoại thành Kapilavatthu, thuộc nước Nepal ngày nay. Cơn đau sinh ập đến, bà tìm nơi bấu víu và cây liền nghiêng nhánh xuống cho bà vịn. Hoàng Hậu vừa vin cây thì cậu bé Siddharta ra đời và sau này tu luyện trở thành Đức Phật. Hình ảnh cây Sa la vươn nhánh xuống cho hoàng hậu vịn trong lúc sinh hạ mang rất nhiều ý nghĩa. 

Khi biết mình sắp viên tịch, Phật hành trình đến đền Càpàla, xứ Vesàli làm lễ, rồi di chuyển thêm một lộ trình khá dài đến tiếp Kusinàra. Mặc dù bị bệnh khá nặng nhưng Phật vẫn kiên quyết đi bộ, vượt sông đến rừng Sa la, xứ Kusinàra. Đoạn đường này dù chỉ có chừng 9km nhưng Phật phải đi mất khoảng 3 tuần, dừng nghỉ đến 25 lần vì bệnh và mệt.


Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ I), Phật dạy: “Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn, này Ananda, đó là Thánh tích, người thiện tín cần chiêm ngưỡng và tôn kính”. Như vậy, đến Kusinàra để nhập diệt là mục đích của Phật. Ngay cả Tôn giả Ananda cũng ngạc nhiên, thắc mắc về việc này: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé, hoang vu và phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm Bà), Ràjagaha (Vương Xá), Sàvatthi (Xá Vệ)…, Thế Tôn hãy diệt độ tại những chỗ ấy”. Cũng nhờ sự thắc mắc này, Thế Tôn giải thích rằng, sở dĩ chọn Kusinàra để diệt độ vì đây là nơi Ngài đã xả bỏ thân mạng trong quá khứ. “Ta đã từng sáu lần làm Chuyển luân Thánh vương và bỏ xác tại đây, nay Ta thành Vô thượng Chánh giác lại cũng muốn bỏ xác tại đây” (Kinh Du Hành, Trường A Hàm I; Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trung A Hàm II). Theo ngài Narada, “Đức Phật chọn Kusinàra để nhập diệt vì ba lý do. Lý do đầu tiên là để thuyết bài pháp Mahàsudasana Sutta nhằm khuyến khích đời sống đạo hạnh. Thứ nhì là để dẫn dắt Subhadda, người đệ tử cuối cùng của Ngài, vì ngoài Đức Phật ra không ai có thể cảm hóa vị này được. Thứ ba là để cho vị Bà la môn Dona có thể phân chia Xá lợi của Ngài một cách êm thắm giữa những người sùng mộ Ngài” (Đức Phật và Phật pháp, tr.225).

Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi, khi đến Kusinàra, vào trong rừng sa la, Ngài nằm đầu hướng về phương Bắc, giữa hai cây Sa la song thọ. Lúc bấy giờ, Sa la song thọ nở hoa trái mùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi xuống, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài.


Theo kinh Đại Bổn Duyên, Trường A Hàm I, cội sa la là Đạo tràng chứng đắc Vô thượng giác của Đức Phật Tỳ Xá Bà. Kinh điển cũng ghi rằng, khu rừng sa la nơi Thế Tôn nhập diệt vì đau thương sầu thảm, khô héo và mang màu trắng như chim hạc, nên còn gọi là Hạc lâm. Đặc biệt là bốn cây Sa la song thọ gần nơi sàng tọa của Phật nằm lúc nhập diệt, mỗi cây chỉ có một nhánh khô héo, chuyển sang màu trắng, cành lá hoa quả đều rơi rụng nhưng nhánh kia vẫn xanh tốt. Bốn cây này được gọi là tứ khô tứ vinh thọ (bốn cây, mỗi cây có một nhánh sống và một nhánh chết). Song thọ ở phương Đông tượng trưng cho Thường và Vô thường; song thọ ở phương Tây tượng trưng cho Ngã và Vô ngã; song thọ ở phương Nam tượng trưng cho Lạc và Bất lạc; song thọ ở phương Bắc tượng trưng cho Tịnh và Bất tịnh (Đại Niết Bàn kinh sớ, quyển 1). Chính hình ảnh của bốn cây Sa la “không phải sống mà cũng không phải chết” này đã nói lên sự thị hiện Niết bàn “sanh nhi bất sanh, diệt nhi bất diệt” của Thế Tôn. Niết bàn là vô sanh, bất diệt giữa muôn trùng sanh diệt. Bốn nhánh Sa la còn xanh tốt trong màu trắng tang thương của Hạc lâm biểu trưng cho bốn đức Niết bàn. Chính giữa vô thường biến chuyển mới làm sáng tỏ cái chân thường, vạn pháp không đối lập mà dung nhiếp; tuy hai mà một, tuy một mà hai. Vì vậy mà Thế Tôn đã chọn rừng Sa la làm nơi nhập diệt.


Như vậy, Sa la là cây thiêng (linh thọ) trong Phật giáo, giống như cây Bồ đề. Lúc ngài Huyền Trang đến Kusinàra chiêm bái, rừng Sa la chỉ còn bốn cây, hiện nay còn hai cây là những chứng tích thiêng liêng. Do đó, trồng cây Sa la để ngưỡng vọng Thế Tôn, hướng về Thánh tích, thú hướng Niết bàn là chuyện nên làm. Quan niệm Sa la là cây “diệt pháp” và không nên trồng là hoàn toàn thiển cận và sai lạc.


III. Bài học 

Một ngày nào đó, bạn bớt chút thời gian thử tìm ngắm cây và hoa Sa la. Nó đẹp lắm và người ta có thể suy ngẫm nhiều điều. Ở Việt Nam, đạo Phật đã thấm sâu vào cuộc sống. Dù nhiều người khai trong lý lịch là không tôn giáo nhưng vẫn tin và làm theo những triết lý và quy tắc Phật giáo. Ngày nay trong thế giới phẳng của toàn cầu hóa với những bầy thú điện tử, con người ta quay cuồng vì tiền bạc và địa vị. Nhưng người ta vẫn cần dành chút thời gian để quay về với cuộc sống hàng ngày; vẫn cần quan tâm đến những điều tưởng như nhỏ nhoi; vẫn cần lắm những đức tin về cuộc sống, cần phải đối xử công bằng với cỏ cây muông thú.


Nhớ tới cây Sa la nơi Phật sinh ra, cũng như là nhớ tới mảnh đất chôn rau cắt rốn. Nhớ để bảo vệ gìn giữ từng tấc đất của Tổ quốc mình. Nhớ tới cây Sa la - nơi Phật mất đi, cũng là nhớ tới quy luật sinh tồn tái tạo. Nhớ để duy trì bản sắc dân tộc, tạo sự trường tồn của nền văn hóa Việt.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

Chùa Bà Bênh

Wat Phnom

Chuyến du lịch Kampuchea 4 ngày 3 đếm từ 1-5-2014. Hai ngày đầu chúng tôi lên Siêm Riệp chiêm ngưỡng Angkor và trãi nghiệm phố đêm ở thành phố cổ kính đền chùa nơi này. Nếu tại 2 khu Angkor Thom và Angkor Wat người xưa Khmer tôn thờ vua như thần linh, như đức Phật thì ở Phnom Bakheng người ta thờ tượng con bò nằm trên chân đỉnh tháp chùa Bakheng. Như vậy, ở Bakheng có dáng vấp đạo Hindu Ấn Độ.

Rời thành phố đền cổ Siêm Riệp, chúng  tôi trở về thủ đô Pnom Penh vương quốc Campuchea. Buổi sáng đẹp trời. Thành phố nơi đây xinh đẹp cổ kính như hình tượng nàng ca kỷ trong cung vua. Nhờ người Pháp khi đến đô hộ đã để lại nơi này nhiều công trình kiến trúc kiên cố độc đáo. Thành phố được quy hoạch dạng thủ phủ bên bờ một ngã ba sông Tông Lê Sáp và dòng Mê Kong khiến cho nó xứng danh là hòn ngọc viễn Đông một thời. Điểm tham quan cũng là chiêm ngưỡng đầu tiên ở thủ đô Nam Vang là ngôi chùa với cái tên Wat Phnom gắn liền với tục gọi là chùa Bà Pênh và cũng là tên thủ đô Phnom Penh (đồi bà Penh). Đây là ngôi  chùa cổ kính được xây dựng từ thế kỷ thứ XIV (1373) cao 27 m tạo điểm nhấn thơ mộng giữa thủ đô Pnom Penh. Một người Pháp đã tặng chùa chiếc đồng hồ khổng lồ đặt dưới chân đồi đến nay vẫn còn hoạt động tốt. Nó là dấu ấn chùa Bà Bênh –Kampuchea. Đánh dấu một thời có mặt người Pháp ở đây.

Wat Phnom là một ngôi chùa lịch sử và là một trong những chùa quan trọng nhất ởPhnôm Pênh. Đây là ngôi chùa linh thiêng thu hút khách hành hương từ mọi miền đất nước và là điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách khi du lịch đến đất nước này.
Chùa được xây năm 1373. Nằm ở độ cao 27 m so với xung quanh, nó là điểm cao nhất trong thành phố này và cũng là công trình tôn giáo cao nhất. Chùa được một quả phụ giàu có là Daun Penh xây trên một ngọn đồi nhân tạo, sau khi một trận lụt lớn đã cuốn trôi các bức tượng Phật tới đây. Truyền thuyết kể lại rằng sự ra đời của Wat Phnom gắn chặt với sự khởi đầu của Phnôm Pênh. Người ta kể rằng năm 1372 bà Penh (Yea Penh) vớt được một cây gỗ trôi dạt trên sông. Bên trong cây gỗ là 4 bức tượng Phật. Bà đã cho đắp một ngọn đồi (phnom có nghĩa là đồi) và một ngôi chùa nhỏ (wat) ở khu vực mà ngày nay gọi là Wat Phnom. Sau này, khu vực xung quanh được gọi theo ngọn đồi (Phnom) và người tạo ra nó (Penh), vì thế mà có Phnom Penh. Ngôi chùa hiện đang tồn tại được xây dựng lại lần cuối vào năm 1926. Đã có nhiều hạng mục thêm vào trong các thế kỷ qua. Tháp chứa hài cốt lớn nhất chứa tro của vua Ponhea Yat (1421?-1462), người đã di chuyển kinh đô của đế chế Khmer từ Angkor về Phom Penh. Khu vực chùa này là trung tâm lễ hội của thành phố trong Năm mới Campuchia  Pchum Benh.

Chùa có tất cả hai hướng để tham quan, du khách tham quan ngôi chùa sẽ đi một đường và xuống một đường. Đường lên chùa không cao, phía con đường đi có bức tượng của rắn thần Naga và 2 con linh sư - những con vật quen thuộc trong tín ngưỡng của người Campuchia và là những linh vật được thấy hầu hết trong đền quần thể đền Angkor. Phần ngôi chùa phía trên đồi tôn thờ giống như hầu hết các ngôi chùa ở Campuchia, phía sau, Bà Pênh được thờ phía sau chùa rất linh thiêng mà du khách thường đến cúng bái, phía cạnh tượng bà Pênh là tượng ông thần tài- một vị thần theo tín ngưỡng của người Hoa được phối thờ. Phần tháp màu trắng được xây dựng lại phía sau tượng bà Pênh được sơn màu trắng dùng để chứa hài cốt của vua Ponhea Yat- hình ảnh đặc biệt mà từ xa có thể thấy ngôi tháp.
Phần đi xuống con đường là quảng trường nhỏ có bức tượng của vuaPonhea Yat. Phía dưới là một đồng hồ cỏ mà người Hoa đã dành tặng cho chùa. Hiện nay đồng hồ cỏ này vẫn hoạt động tốt.
Điều quy định khi tham quan chùa là không mặc quần áo ngắn tay, khi cúng bái bà Pênh tuyệt đối không cầu tình duyên. Xung quanh chùa có rất nhiều khỉ, chúng được nuôi thả tự do và tuyệt đối khi gặp chúng không được chọc phá.


Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Du lịch Siêm Riệp

Chu vi đền Angkor wat

Đình đền Angkor
Đền Angkor wat nhìn từ đỉnh đền Bakheng



Siêm Riệp - K

6 giờ sáng vượt đường bộ 650 km từ TP HCM đến Siêm Riệp (Kampuchea) đồng hồ chỉ 17g 30. Đường tương đối tốt, ít xe cộ, hai bên là cánh đồng đang vào mùa nắng tháng năm nên chỉ thấy mút mắt là đồng khô cỏ cháy. Khách sạn 4 sao Dara Roang Sey Angkor tỉnh lỵ Siêm Riệp kiến trúc hoa văn độc đáo từ tiền sãnh cho đến phòng ngủ. Phố đếm Siêm Riệp với ánh sáng vàng sậm khiêm tốn từ ngoài phố cho đến phòng nghỉ không phải vì tiết kiệm điện mà phải theo quy cách trang nghiêm và cổ kính. Tông màu nóng nâu, cánh gián được chọn phổ biến. Về xây dựng, không có cơ ngơi nào ở đây được phép xây dựng cao hơn đỉnh đến chính trong khu quần thể đền Angkor quá 65 mét. 



Đế quốc Khmer đã phát triển rực rỡ vào khoảng thế kỷ 9 đến 15; họ đã xây dựng trên vùng đất này làm kinh đô cho đế chế Kampuchea. Đến năm 1431, người Xiêm (Thái lan) đánh chiếm kinh đô này và dân cư Khmer ở đây phải di cư về phía nam khu vực Phnôm Pênh (Nam Vang).....

Cách này hơn 800 năm ? nhân loại vẫn chưa biết người Khmer đã làm thế nào để xây dựng kinh đô của họ? Chu vi đền là 6 km, tường đá cao 8m, bề dày 1m. Có tất cả 5 tháp, tháp chính cao 65m, 4 tháp phụ cao 40m.

Con đường dẫn tới chính môn từ hướng Tây vào Angkor Wat cũng được làm bằng đá tảng dài 230m, mặt lộ rộng gần 10m cao 5m so với mặt nước hồ trong xanh ở hai bên. 

Hào nước bao bọc Angkor Wat rộng 190m tạo nên một hình vuông dài một cây số rưỡi. Khu đền chính được xây dựng theo hình Kim Tự Tháp, với 5 tháp chính tượng trưng cho núi Meru của Ấn Độ và được chia làm 3 cấp độ cao, độ cao thứ nhất tượng trưng cho địa ngục hay là đất, tầng 2 tượng trưng cho đất liền hay là đất, độ cao thứ 3 tượng trưng cho gió hay thần thánh. Tầng trên cùng được xem là cao nhất với độc cao tuyệt đối là 65m, có 7 vòng tượng trưng cho bảy rặng núi thiêng của Meru vươn lên giữa rừng già. Mỗi tháp có hình dáng nột đóa hoa sen đang nở. Đền Angkor không phải là ngôi đền đẹp nhất mà là ngôi đền được bảo quản ở tình trạng tốt nhất.

Chính điện Angkor Wat là một kiến trúc ba tầng, kết nối với nhau nhờ những hành lang sâu thẳm. Điểm cần lưu ý là toàn bộ kiến trúc Angkor Wat là những phiến đá xanh, ở đâu cũng thấy chạm trổ hoa văn, phù điêu theo tích xưa truyện cổ mà các chuyên gia nói rằng xuất phát từ sử thi Ấn Độ Mahabharata và Raymana.

Tầng 1: Địa ngục
Có thể nói Angkor Wat được xem là công trình được xây dựng vào nền cực thịnh của Angkor. Có lẽ độc đáo nhất là những bức tranh điêu khắc trên tường của dãy hành lang tầng thấp nhất. Đây có thể xem là bức tranh điêu khắc trên đá to nhất, dài nhất của thế giới được điêu khắc hoàn toàn bằng tay. Với bề cao 2,5m và chạy dài hơn 800 mét miêu tả những điển tích trong kinh điển Bà La Môn, những chiến công của vua Suryavarman II - người tạo dựng ngôi đền. Nhờ được bảo vệ bởi bức trần và mái hành lang chạy xuyên suốt, bức tranh dường như còn nguyên vẹn và như mới. Phía trong cùng của bức tranh là cuộc chiến khuấy biển sữa trong truyền thuyết, những chú khỉ và trận chiến của thần Sita, những điệu múa của tiên nữ Aspara... Tại các góc của Angkor Wat và từng centimet của ngôi đền, không chỗ nào là không có điêu khắc. Những đường nét điêu khắc trên đá tỉ mỉ đến mức người ta lầm tưởng là chúng được điêu khắc trên một khuôn mẫu có sẵn. Nguyên tắc xây dựng ngôi đền được xây dựng trên nguyên tắc, sắp xếp đá trước, sau đó các kiến trúc sư mới bắt đầu điêu khắc. Bằng chứng là tại các cây cột ở tầng thứ nhất vẫn còn vết tích của những bức tranh điêu khắc còn dang dở. Tầng nhất của Angkor có các hồ nước dùng cho vua tắm rửa, tẩy rửa tội lỗi và thoát y hiện nay đã khô cạn nước và nhằm bảo vệ cho di tích.

Tầng 2: Trần gian
Là một khoảng sân rộng được bao bọc bởi dãy tường thành bao bọc, bên trong là các gian điện thờ các vị thần, khu vực tầng tháp thứ hai là nơi có hệ thống thoát hước cho cả ngôi đền. Tại các gian điện thờ các vị thần Visnu giáo to lớn bằng đá đen nhưng lại bị người dân Campuchia hiện tại lầm tưởng là Phật Thích Ca nên đã mặc áo vàng và thờ cúng như Phật giáo. Sự lầm tưởng về vị thần của Hindu giáo và Phật giáo cũng dễ dàng chấp nhận bởi sự giao thoa về tôn giáo. Tại tầng 2 có vô số những bức tranh Apsara nhảy múa với bộ ngực trần. Cặp nhũ hoa của bức tượng bóng loáng do du khách nghịch ngợm sờ mó lâu ngày. Có hướng dẫn viên đã biết cách phân biệt nữ thần nào có gia đình và nữ thần nào chưa có gia đình nhờ vào nếp nhăn ở bụng.

Tầng 3: Thiên đàng
Là tầng cao nhất, nơi được xem là nơi cư ngụ của thần thánh với độ cao 65m. Các cầu thang đi lên các tháp trung tâm chia làm 4 mặt. Tầng thứ ba gồm hai hành lang chữ thập cắt nhau thẳng góc ở giữa. Ở điểm giao tiếp của hai hành lang là trung tâm đền Angkor Wat. Xưa kia trung tâm đền có tượng thờ bằng vàng thần Vishnu, nhưng tượng đã bị mất. Ngày nay trung tâm đền có các tượng thờ Phật. Tháp ở trung tâm đền là tháp cao nhất Angkor Wat, chung quanh tháp là bốn hành lang hình vuông. Ở mỗi góc hành lang là một tháp. Tháp trung tâm và bốn tháp chung quanh tạo thành tòa chân trời nổi tiếng của Angkor Wat khi ta nhìn từ đàng xa hay lúc gần đến khuôn viên đền. Các cầu thang đi lên dốc đứng gần như 45 độ, hẹp và vô cùng khó leo. Nó không dành cho những du khách tim mạch và những người lớn tuổi. Đã xảy ra tai nạn đối với du khách và nhiệm vụ đặt ra cho các nhà quản lý Angkor chính là việc phải xây dựng một cầu thang sắt có tay vịn và bục gỗ che chắn nhằm bảo vệ di tích. Bốn mặt của tháp đã được xây dựng một tháp có cầu thang sắt đi lên. Trong những gian phòng lớn của ngôi đền, có một gian rất huyền bí, du khách thường đến đó đứng hơi sát tường nắm chặt bàn tay và vỗ lên ngực nhẹ nhẹ thì lập tức có tiếng vang vọng như mình đang đánh trống, gian phòng này nếu nhìn từ bên ngoài vào thì được thiết kế ở phía bên trái. Với rất nhiều các tiên nữ được điêu khắc trên tường thì có một tiên nữ há miệng nhe bốn cái răng do cô này mắc cỡ mới tiến cung nên đứng thầm cười một mình bên phải sát cánh cửa.

Đền Angkor là một thành tựu kiến trúc huy hoàng, nó thể hiện một trình độ sâu sắc về thể tích, không gian và sự tổ hợp kỷ hà. Thời bấy giờ, kỹ thuật phong cách kiến trúc còn hết sức giới hạn - việc sử dụng đá lại có tính chất như sử dụng gỗ; những kết cấu có hình bán nguyệt và nóc vòm, là những kỹ thuật mà ta chưa biết - những hiệu quả toàn diện của nó làm cho mọi người phải ngạc nhiên.

Hàng ngày có rất đông du khách trong và ngoài nước, thế mà vệ sinh nơi này rất tốt, mặt hồ không có miếng rác, hay bọc ni lông trôi nổi!? Cây cối dạng cổ thụ nguyên vẹn. Người Kampuchea ý thức cao trong việc bảo vệ rừng và không ăn cắp bất cứ thứ gì gọi là của đền, chùa. Đặc biệt phí vào cổng tham quan chỉ có người nước ngoài phải trả 20$. Chính phủ Kampuchea cho rằng đây là tài sản của tổ tiên nên dân tộc họ có quyền chiêm bái nên không thu phí người dân bản địa.


Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Người Duy Ngô Nhỉ xưa và nay



Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương.[33]
Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân,[37] mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920,[38]. Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế.[39]
Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.[40]

Gốc tích người Duy Ngô Nhĩ Tân Cương.
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương.
Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân, mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920. Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế.
Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.

Từ năm 1992

Vào những năm sau khi Nga ra đời, Tổng thống Nga Boris Yeltsin khi đó đã thực hiện cuộc cải tổ quan hệ Nga-Trung mà Gorbachyov từng làm. Tuy vậy, dưới thời Boris Yeltsin, quan hệ Nga-Trung vẫn nảy sinh bất đồng về người Duy Ngô Nhĩ, khi chính phủ thân phương Tây của Yeltsin cáo buộc Trung Quốc "đàn áp sắc dân thiểu số". Trung Quốc không đồng ý và nhiều lần gây tranh cãi với chính phủ Yeltsin, bất chấp Nga vẫn có được sự ủng hộ của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề Chechnya, một xứ quốc ly khai ở phía nam nước Nga vùng Kavkaz. Song, khi Vladimir Putin lên cầm quyền từ năm 2000, chính phủ Nga ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Tân Cương, và phản đối người Duy Ngô Nhĩ "gây bạo loạn" vào năm 2009. Tuy vậy, Nga vẫn cho phép người Duy Ngô Nhĩ lưu vong lẩn trốn ở Nga.(Wikipedia)
Và hiện nay.

Sự giận dữ của người Duy Ngô Nhĩ được tích tụ đã chuyển thành vô vàn những lời than phiền đối với các chính sách của chính phủ Trung Quốc.

Chỉ trong tháng 12/2013, tại Tân Cương đã xảy ra liên tiếp 2 vụ bạo loạn nghiêm trọng. Ngày 30/12/2013, tại huyện Shache, đồn cảnh sát huyện bị 9 người Duy Ngô Nhĩ tấn công. 8 kẻ tình nghi bị cảnh sát bắn chết, đối tượng còn lại bị bắt giữ.
Ngày 15/12/2013, tại huyện Shufu, cảnh sát bị tấn công bằng một thiết bị phá nổ và dao khi bắt giữ những kẻ tình nghi. Hai cảnh sát thiệt mạng. 14 kẻ tình nghi bị bắn chết và 8 đối tượng bị bắt giữ.
Mới đầu tháng 3 vừa qua, vụ tấn công đẫm máu tại nhà ga Côn Minh khiến ít nhất 29 người chết, hơn 100 người bị thương cũng được cho là do người Duy Ngô Nhĩ thực hiện.
Khi xảy ra vụ máy bay Malaysia mất tích bí ẩn ở Biển Đông, dư luận cũng đặt ra giả thuyết về một vụ khủng bố khi báo chí đưa tin trên máy bay có thể có hành khách người Duy Ngô Nhĩ.
Vậy nguyên nhân nào đã khiến Tân Cương trở thành điểm nóng và người Duy Ngô Nhĩ trở thành những trở thành nỗi ám ảnh sợ hãi, gắn với các nguy cơ khủng bố.
Theo nghiên cứu của Raymond Lee, chuyên gia về các vấn đề Trung Quốc đăng trên chuyên trang của hãng thông tấn Al Jazeera thì có 5 nguyên nhân như vậy:
Tân Cương, điểm nóng của các vụ giết người
Thứ nhất, Trung Quốc là một xã hội đang thay đổi vì quá trình hiện đại hóa quá nhanh của chính mình. Sự gia tăng theo cấp số nhân của các vấn đề xã hội đã gây ra những rủi ro về an ninh trên diện rộng. “Các vụ tấn công bạo lực” và “các hành động khủng bố” cực đoan cũng đã gia tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Sự leo thang của “các vụ tấn công bạo lực” ở Tân Cương là minh chứng cho xu hướng này.
Từ khi Đặng Tiểu Bình áp dụng chính sách cải cách và mở cửa năm 1978, Trung Quốc đã đi theo một quá trình hiện đại hóa nhanh.
Hiện đại hóa nhanh của Trung Quốc cũng được thể hiện trong sự phát triển đô thị nhanh chóng. Trung Quốc đã tăng gấp đôi tốc độ đô thị hóa từ 25,8% năm 1989 lên 51,8% năm 2012, và Tân Cương cũng trải qua một xu thế tương tự về tăng trưởng kinh tế mạnh và phát triển đô thị nhanh trong những năm gần đây. Điều này cho thấy xã hội Trung Quốc nói chung và Tân Cương nói riêng đều trải qua những thay đổi lớn kéo theo nhiều vấn đề xã hội.
Theo Tổng cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, số trường hợp tội phạm ở nước này đã tăng 4 lần, từ 1,62 triệu vụ năm 1995 lên 6,55 triệu vụ vào năm 2012, cho thấy sự gia tăng các vấn đề xã hội dưới mọi dạng thức.
Tuy nhiên, nếu chúng ta xem các trường hợp phạm tội nghiêm trọng (như giết người, xúc phạm thanh danh, trộm cướp, cưỡng hiếp, bắt cóc) thì xu hướng gia tăng này không rõ rệt. Điều này khiến người ta hoài nghi về việc, phải chăng sự gia tăng các vấn đề xã hội đã dẫn tới các hiểm họa về an ninh lớn như chúng ta đã thấy ở Tân Cương?
Đáng tiếc là Trung Quốc đã không công bố số liệu cấp tỉnh về tỷ lệ phạm tội, và vì vậy rất khó đánh giá liệu Tân Cương có xu hướng giống như thống kê trên cả nước hay không. Tuy nhiên, số liệu thống kê nội bộ cho thấy Tân Cương có tỷ lệ giết người cao hơn nhiều tỉnh khác ở Trung Quốc, chỉ thua các tỉnh phía Đông Bắc và tỉnh Quảng Đông trong những năm 2000-2009.
Bằng chứng này phần nào giúp giải thích rằng bạo động gần đây ở Tân Cương có liên quan đến các vấn đề xã hội đang bùng phát trong cái xã hội đang thay đổi dưới tác động của hiện đại hóa nhanh ở Trung Quốc.
Hiện trường vụ tấn công đẫm máu ở nhà ga Côn Minh khiến hơn 100 người thương vong
Hiện trường vụ tấn công đẫm máu ở nhà ga Côn Minh khiến hơn 100 người thương vong
Nỗi bất mãn bị dồn nén của người Duy Ngô Nhĩ
Thứ hai là số lượng và quy mô “các vụ bạo lực” tại Tân Cương gần đây ở mức cao nhất so với các tỉnh khác trên cả nước. Mức độ nghiêm trọng của các vụ tấn công ở Tân Cương được gắn với tình trạng chia rẽ xã hội đến mức thảm họa xuất phát từ chiến lược Phát triển miền Tây Trung Quốc của Bắc Kinh, một chính sách vấp phải khá nhiều chỉ trích.
Các đầu tư lớn của Bắc Kinh vào Tân Cương đã giúp tăng đáng kể GDP của địa phương này. Nhưng chỉ một số ít người được hưởng lợi từ sự thịnh vượng kinh tế này trong khi nhiều người lại phải chịu các hậu quả của quá trình công nghiệp hóa và phát triển.
Ví dụ, tăng trưởng trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã không góp phần nhiều cho mục tiêu giảm nạn thất nghiệp. Ô nhiễm do sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường liên quan đến chất lượng nước, đất và không khí đe dọa sản xuất nông nghiệp. Tăng trưởng kinh tế nhanh đẩy giá cả hàng hóa tăng vọt và điều này khiến lợi nhuận của nông dân giảm sút.
Rất ít thành quả kinh tế, như thuế hay tiền đề bù, được tái phân bổ cho người dân để cải thiện đời sống của họ. Phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn bước vào các thị trường nhưng lại đẩy các công ty địa phương ra khỏi thương trường.
Tất cả các vấn đề nói trên có thể gói gọn lại là mức sống bị xuống cấp, trái ngược với sự bùng nổ kinh tế lừa đảo. Sự bất mãn trong dân chúng và những lời than phiền nhanh chóng gia tăng.
Người Duy Ngô Nhĩ tại Trung Quốc có khoảng 10 triệu người, và 80% số dân này sống tại miền Nam Tân Cương. Hầu hết người Duy Ngô Nhĩ là nông dân và ít học, vì vậy họ có ít cơ hội việc làm.
Trong khi nhiều doanh nghiệp lớn đổ tới Tân Cương đầu tư, hầu hết trong số này tuyển dụng nhân công từ các tỉnh khác và chỉ tạo cho người dân địa phương một số lượng rất hạn chế những công việc không đòi hỏi kiến thức chuyên môn.
Tình trạng chia rẽ xã hội gắn với việc khai thác đất đai, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, nạn tham nhũng trong chính quyền địa phương, và cảm giác thất vọng vì bị gạt ra ngoài lề xã hội, định kiến sắc tộc, và không hiểu văn hóa,... tất cả làm gia tăng cảm nhận tiêu cực của người Duy Ngô Nhĩ về chính sách Phát triển miền Tây Trung Quốc.
Sự giận dữ được tích tụ đã chuyển thành vô vàn những lời than phiền đối với các chính sách của chính phủ và trở thành sự đè nén về mặt tình cảm, giải thích cho động cơ của nhiều vụ bạo loạn gần đây. theo Soha.vn
(Còn tiếp)

Niết bàn


Niết bàn là nơi tiên cảnh tọa lạc thượng nguồn dòng thác này. Vì thế các tín đồ muốn đến nơi, trước hết phải buông bỏ hết hành trang bám víu nặng nề. Kế đến phải dùng cây gậy hộ mạng để leo dốc. Con đường đi lên rất là khó khăn. Bởi vì tín đồ phải vượt suối, trèo đèo, băng rừng, vượt thác mới được đến nơi. Tín đồ phải biết tự lực mưu sinh trong suốt quá trình đi tìm về niết bàn.

Mã ngụy nhiều ...ma

Ông Nguyễn Thanh Giản (từng là bác sĩ BV Bình Dân) viết:

...Còn Bình Dân Bệnh Viện có nhiều ma là chuyện thuờng. Các y tá trực cũng công nhận điều đó. Có nhiều nguời nói rằng họ đã thấy ma, nói chuyện với ma, và thấy ma phá phách, nên mấy bà y tá trực thuờng đeo 1 thứ bùa ngải gì đó. Bệnh viện Bình Dân nằm trên khu Mả Nguy ngày xưa. Khi vua Minh Mang dẹp xong loạn quân Lê Văn Khôi, ông ra lệnh chém hết 2000 nguời nổi loạn ở thành Gia Ðịnh và chôn ở đó. Lê Văn Khôi lúc đó đã chết, còn linh muc Marchand (cố Du) bị bắt giải về Huế bị xử tội vì đã giúp Lê Văn Khôi súng đạn cầm cự với triều dình tới mấy năm.
Trở lai chuyện ma ở bệnh viện Bình Dân. Tối hôm đó chỉ còn mình tôi trong phòng trực. Chung quanh lặng như tờ. Tôi vào giuờng đang thiu thiu ngủ. Khỏang 11 giờ đêm bỗng có nguời đập cửa phòng. Nhìn qua tấm kiếng mờ, tôi thấy nguời y công nói:

- Mời ông thầy ra phòng nhận bệnh có người bệnh nặng!

Tôi trở dậy thay áo blouse đi vội ra phòng nhận bệnh, đèn còn leo lét sáng. Tôi không thấy bệnh nhân và cũng không có thân nhân đi theo bệnh nhân. Chỉ thấy nguời y công vẫn còn nằm trong mùng, và đang ngủ say sưa. Tôi cáu :

- Anh mời tôi ra khám bệnh, sao không thấy bệnh nhân đâu cả ?

Nguời y công vội phân trần:

- Nãy giờ tôi ngủ, có gọi ông thày bao giờ đâu ? Có lẽ ma nó giả dạng đấy !

Trở về phòng trực, tôi không ngủ được nữa. May là khoảng 2 tiếng sau, các bạn về, chúng tôi chơi ping pong và cờ tuớng suốt đêm.
----
Ngay cả bác sĩ mà còn lưỡng lự nửa tin, nửa ngờ ngợ chuyện có hay không ...ma nữa huống chi tôi ???!!!

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Hồng Lâu Mộng phương Nam

Ngoisao.vn) - Nam Phương là tên gọi yêu thương mà cựu hoàng Bảo Đại gọi bà (có nghĩa là hương thơm miền Nam), còn tên thật của bà là Nguyễn Hữu Thị Lan, người phụ nữ nức tiếng xứ An Nam ngày ấy về lòng nhân từ và nhan sắc.
Sinh thời, Nam Phương Hoàng hậu là cháu ngoại ông Lê Phát Đạt (huyện sĩ) đất Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Bà sinh ra trong một gia đình theo đạo Thiên chúa, mang quốc tịch Pháp. Trên bà có một người chị gái, hai chị em đã sống tuổi thanh xuân êm đềm, thơ mộng. Và điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời Nguyễn Hữu Thị Lan là từ khi gặp Bảo Đại (Nguyễn Vĩnh Thụy).
Từ bé, Nguyễn Hữu Thị Lan đã có một nhan sắc vượt trội, cao lớn và xinh đẹp hơn so với bạn bè đồng trang lứa. Không chỉ có nhan sắc, bà còn là một người nết na, thùy mị và rất có học. Năm 18 tuổi, bà đỗ tú tài toàn phần tại trường Couvent des Oiseaux - Pháp. Mối tình duyên của bà với vua Bảo Đại là do người lớn sắp đặt, cụ thể là người cậu ruột Denis Lê Phát AnDenis An hy vọng cô cháu gái trở thành Hoàng hậu thì không những ông nhanh chóng leo cao các nấc thang danh vọng, mà còn có cơ hội phất lên trong làm ăn. Từ đó, ông quyết tâm nhờ vả viên Toàn quyền Pháp Pasquier và Khâm sứ Charles tạo mọi điều kiện để Nguyễn Hữu Thị Lan tiếp cận vua Bảo Đại.
Chính vì nhan sắc hơn người và trí tuệ của một tri thức Tây học, vua Bảo Đại đã say đắm bà ngay từ những lần gặp gỡ đầu tiên. Hôn lễ của họ diễn ra vào một ngày cuối tháng 3/1934 tại Huế, lúc ấy Nguyễn Vĩnh Thụy 21 tuổi và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Ngay sau lễ cưới 4 ngày, Bảo Đại sắc phong Nguyễn Hữu Thị Lan thành Thái hậu với tước hiệu Nam Phương, một biệt lệ xưa nay hiếm của triều Nguyễn. Cùng với cựu hoàng Bảo Đại, Nam Phương Hoàng hậu sinh hạ được 5 người con.
Cuối năm 1946, Nam Phương Hoàng hậu cùng các con sang Pháp. Bà và các con sống lặng lẽ tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước Pháp và mất tại đó khi mới 49 tuổi.
Sau gần 50 năm ngày mất của Nam Phương Hoàng hậu, vị Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn, hãy cùng ngẫm lại một đời nhan sắc của bà:


Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương năm 1953

Năm người con của Nam Phương Hoàng hậu và vua Bảo Đại là thái tử Bảo Long,
công chúa Phương Mai, công chúa Phương Dung, công chúa Phương Liên
và hoàng tử Bảo Thăng trong vườn thượng uyển của gia đình ở Đà Lạt

Vợ chồng vua Bảo Đại cùng hai con đầu lòng là thái tử Bảo Long
và công chúa Phương Mai trong buổi dạo chơi vườn hoa tại cung
Nam Phương Hoàng hậu ở Đà Lạt

Nấm mộ đơn sơ của Hoàng hậu Nam Phương trong nghĩa trang nhà thờ ngay
tại Chabrignac.